Phần 1: Huyền thoại xe Moskvich-400-420A  – Khởi nguồn và Dấu ấn Opel

Trước Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, ô tô ở Liên Xô không được bán cho người dân. Sở hữu một chiếc xe cá nhân chỉ có thể thông qua những thành tích đặc biệt với Tổ quốc hoặc trúng xổ số. Những nỗ lực đầu tiên để thiết lập sản xuất ô tô cỡ nhỏ cho dân chúng đã được thực hiện trước chiến tranh. Tuy nhiên, ý tưởng này chỉ thực sự được hiện thực hóa vào đêm trước lễ kỷ niệm 800 năm thủ đô Moscow, với sự ra đời của xe “Moskvich-400-420” tại Nhà máy Ô tô Cỡ nhỏ Moscow (MZMA). Chính vào thời điểm đó, những chiếc xe sản xuất hàng loạt đầu tiên đã xuất hiện trên thị trường với mức giá cực kỳ cao là 9.000 rúp vào thời điểm đó. Ở một đất nước vừa trải qua chiến tranh, chỉ có số ít người có đủ khả năng mua một chiếc xe như vậy, nhưng ngay cả khả năng sở hữu một chiếc xe riêng trong giả thuyết cũng sưởi ấm tâm hồn người dân bình thường.

“Moskvich” và Opel – Anh em song sinh

Điều được biết rộng rãi là “Moskvich” là bản sao chính xác của chiếc xe con Opel Kadett K38 của Đức trước chiến tranh, và không phải là phiên bản bốn cửa phổ biến nhất. Điều thú vị hơn là: chiếc xe con “dân dụng” đầu tiên của Liên Xô được đưa vào sản xuất theo chỉ thị cá nhân của đồng chí Stalin. Nguyên mẫu của “Moskvich”, chiếc Opel Kadett K38 của Đức, đã thu hút sự chú ý của ông ngay cả trước chiến tranh. Có thông tin cho rằng N. S. Vlasik, chỉ huy Điện Kremlin, người đứng đầu đội cận vệ riêng của nhà lãnh đạo, đã sở hữu một chiếc xe như vậy. Bản thân Stalin đã ủng hộ việc tổ chức sản xuất nó ở Liên Xô. Vì vậy, hoàn toàn hợp lý khi vào ngày 19 tháng 6 năm 1945, khi Dân ủy Chế tạo Máy Trung bình S. A. Akopov tổ chức buổi trình diễn các mẫu xe tiềm năng để sản xuất thiết bị nội địa tại Điện Kremlin, trong số các loại xe khác có mặt cả Opel Kadett K38.

Nhân chứng của những sự kiện đó, A. Andronov, sau này là kỹ sư trưởng của MZMA, đã giới thiệu Opel Kadett tại buổi trình diễn và không ít lần kể về chỉ thị của Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng I. V. Stalin: “Lướt nhìn qua KIM-10 và mẫu được hiện đại hóa theo kiểu ‘Opel’ (KIM-10-52), Stalin nhắc lại ngắn gọn rằng ông không phải là người phê duyệt lựa chọn mẫu xe để sản xuất trước chiến tranh, và bây giờ không nên nói về chúng. Chỉ vào Opel Kadett, ông nhấn mạnh chắc chắn: ‘Người dân Liên Xô cần một chiếc xe nhỏ, rẻ, hãy làm ‘Opel’. Họ đã sản xuất hơn hai trăm nghìn chiếc ở Đức. Đừng lãng phí thời gian’.” Và thêm, quay sang Akopov: “Trình bày dự thảo nghị quyết của GKO để phê duyệt.”

Biết những điểm yếu của chiếc xe, tôi đã xin phép Stalin cho phép thay đổi cấu trúc động cơ và hộp số, nhưng ông thẳng thừng từ chối: “Không nên thay đổi bất cứ điều gì! Khi các anh làm chủ được sản xuất, lúc đó hãy tiến hành sửa đổi và cải tiến.” Các chuyên gia Liên Xô không vui mừng với lựa chọn của nhà lãnh đạo: ngay cả trước chiến tranh, nhà máy đã bắt đầu chuẩn bị sản xuất chiếc xe của riêng mình, và giờ đây là một mệnh lệnh nghiêm ngặt phải làm chủ Opel Kadett. Điều này có nghĩa là công việc chuẩn bị sản xuất lớn và tốn kém lao động phải bắt đầu lại từ đầu. Không phải tất cả các chuyên gia đều đồng ý với việc lựa chọn mẫu xe. Ví dụ, Opel có một chiếc xe hiện đại và mạnh mẽ hơn là Opel Olympia, với động cơ van trên và đầu xi lanh bằng nhôm. Nhưng tranh cãi với nhà lãnh đạo là vô nghĩa và không an toàn.

Dấu vết của Đức

Có ý kiến cho rằng thiết bị từ nhà máy của Đức đã được đưa đến Moscow từ Đức để sản xuất “Kadett”. Phiên bản này gần như không được xác nhận bởi cả nhân chứng lẫn tài liệu. Tại nhà máy Opel ở Rüsselsheim, sau chiến tranh chỉ còn lại một phần nhỏ thiết bị để sản xuất Opel Kadett, mặc dù việc sản xuất chính chiếc xe đó đã bị ngừng lại vào năm 1940 do ngành công nghiệp chuyển sang sản xuất phục vụ chiến tranh. Và những gì còn lại chủ yếu được sử dụng để sản xuất mẫu hai cửa phổ biến hơn là Opel Kadett P38. Stalin đã ra lệnh sản xuất phiên bản bốn cửa.

Tài liệu kỹ thuật hoàn chỉnh cũng không có ở nhà máy Opel ở Rüsselsheim. Tài nguyên chính của doanh nghiệp Đức này thuộc về công ty General Motors của Mỹ. Trước chiến tranh, đại diện của họ đã cố gắng di chuyển cả máy móc và bản vẽ ra khỏi nhà máy. Toàn bộ tài liệu kỹ thuật và thiết bị cho nhà máy của Liên Xô phải được tạo ra lại từ đầu, dựa trên các mẫu vật thu được còn sót lại. Việc này không thể chỉ thực hiện bằng sức mạnh của phòng thiết kế MZMA, do đó, các chuyên gia Đức, các kỹ sư làm việc tự nguyện ở Đức, đã được huy động tham gia công việc. Ví dụ, thân xe “Moskvich” được thiết kế bởi phòng thiết kế ở thị trấn Schwarzenberg thuộc Sachsen. Dưới sự lãnh đạo của kỹ sư Liên Xô O. V. Dybov, một mô hình chủ đạo của thân xe bốn cửa, bộ bản vẽ làm việc và khuôn mẫu cho thiết bị dập đã được tạo ra. Vào tháng 3 năm 1946, các tài liệu làm việc này đã được gửi đến Moscow, nơi tiếp tục chuẩn bị xe để đưa vào sản xuất. Bản thân các khuôn dập được chế tạo tại ZIS và GAZ, từ đó các bộ phận thân xe đầu tiên được cung cấp.

Việc phát triển động cơ cũng được thực hiện ở Đức, tại Berlin, trong cục khoa học và kỹ thuật trung ương dưới sự lãnh đạo của giáo sư V. I. Soroko-Novitsky, một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực chế tạo động cơ, tái tạo tài liệu dựa trên các mẫu có sẵn.

Những gì tốt cho người Đức còn tốt hơn cho người Nga

“Moskvich-400-420” được trang bị động cơ bốn xi lanh nhỏ gọn, van dưới, với tỷ số nén chỉ 5.8 đơn vị, hoạt động bằng loại xăng có chỉ số octan thấp nhất là 66. Mặc dù “lạc hậu” ngay cả vào thời điểm đó, động cơ bốn trăm nổi tiếng về độ bền và tiết kiệm nhiên liệu (chỉ 8 lít trên 100 km). Công suất động cơ (23 mã lực) đủ để tăng tốc xe lên đến 90 km/h, và vào thời điểm đó không cần tốc độ cao hơn.

Sự tăng tốc khiêm tốn của “Moskvich-400” không chỉ được giải thích bằng động cơ công suất thấp mà còn bằng hộp số ba cấp không có bộ đồng tốc, việc chuyển số đúng cách đòi hỏi thời gian.

Một đặc điểm khác thường của chiếc xe là hệ thống treo trước độc lập Dubonnet, được đặt tên theo tên người phát minh. Tính độc đáo của nó nằm ở chỗ bánh xe lắc không theo chiều ngang mà theo chiều dọc thân xe. Hệ thống treo như vậy với hai tay đòn dọc mang lại cho xe độ ổn định hướng cao, và không cần điều chỉnh góc camber của bánh xe. Nhưng nó không bao giờ được sử dụng trên ô tô nội địa sau đó. Hệ thống treo sau truyền thống sử dụng nhíp bán elip.

Tuy nhiên, phanh trên xe lại khá tiên tiến. Thứ nhất, đó là hệ thống dẫn động thủy lực hiếm thấy vào thời điểm đó. Thứ hai, tang trống phanh bằng gang trên tất cả các bánh xe “Moskvich”, đồng thời đóng vai trò là moay-ơ và đĩa bánh xe. Điều này được thực hiện với một mục đích duy nhất là giảm khối lượng không treo của bánh xe, qua đó cải thiện độ êm ái và khả năng điều khiển của xe. Loại bánh xe không đĩa tương tự sau này được sử dụng trên “Zaporozhets”, vào cuối những năm 40, cấu trúc này được coi là sáng tạo.

Một đặc điểm đáng chú ý của “Moskvich-400” là cần gạt nước kính chắn gió. Nó không được truyền động bằng mô tơ điện như ngày nay, mà được nối trực tiếp với động cơ bằng một trục mềm, do đó tốc độ hoạt động của “gạt nước” phụ thuộc trực tiếp vào vòng tua động cơ. Một mặt, trong thời tiết xấu, khi tầm nhìn đã giảm, phải di chuyển chậm, cần gạt nước hầu như ngừng hoạt động. Mặt khác, khi vượt xe, vào thời điểm cần thiết nhất, nó luôn bắt đầu di chuyển nhanh hơn.

Nhờ động cơ có lực kéo tốt ở vòng tua thấp, sự lựa chọn tỷ số truyền động hợp lý trong hệ thống truyền động và khoảng sáng gầm xe lớn (200 mm), “Moskvich” có khả năng vượt địa hình tốt trên những con đường xấu, và trên những con đường tốt, nó bỏ qua những sai lầm của người lái trong việc sử dụng ly hợp và chọn số.

SHOPPING CART

close